Chăm Sóc - Phòng Trị Bệnh Trên Heo

7 điều cần biết về BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG ở Lợn

Bệnh tụ huyết trùng ở lợn là gì?

Bệnh tụ huyết trùng ở lợn là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn gram âm Pasteurella Multocida gây ra. Đây là căn bệnh nguy hiểm, lợn mắc bệnh có tỉ lệ chết cao, gây thiệt hại lớn cho chăn nuôi.

Bệnh tụ huyết trùng

Nguyên nhân gây bệnh tụ huyết trùng?

Bệnh tụ huyết trùng ở lợn do vi khuẩn Pasteurella multocida gây ra. Bệnh có thể gây ra ở mọi lứa tuổi nhưng chủ yếu ở lợn từ 3-6 tháng tuổi.

Vi khuẩn gây bệnh thường trú ngụ ở niêm mạc đường hô hấp. Khi gặp các điều kiện bất lợi như môi trường sống thay đổi, chuyển đàn…, lợn bị giảm sức đề kháng, vi khuẩn sẽ phát triển thành bệnh.

Bệnh thường nổ ra ở những đàn lợn giống có tiềm ẩn bệnh suyễn, lợn vỗ béo và những trại có điều kiện chăn nuôi, chế độ dinh dưỡng kém như: chuồng nuôi diện tích nhỏ, nuôi chật chội, hàm lượng khí amoniac trong chuồng heo cao, hoặc tác động của stress trên heo cũng là nguyên nhân khiến dịch bệnh bùng phát

Bệnh thường lây lan qua 2 con đường trực tiếp và gián tiếp:

  • Lây trực tiếp: bệnh lây từ lợn bệnh sang lợn khỏe qua tiếp xúc trực tiếp
  • Lây gián tiếp: bệnh lây qua đường thức ăn, nước uống, các con vật trung gian lây truyền như chuột, ruồi, muỗi…

Biểu hiện của bệnh tụ huyết trùng?

Bệnh tụ huyết trùng trên lợn thường có thời gian ủ bệnh từ 1 – 14 ngày, bệnh biểu hiện qua 2 thể cấp tính và thể mãn tính:

Thể cấp tính:

  • Bệnh tụ huyết trùng trên lợn ở thế này thường có những biểu hiện sau: Lợn sốt cao trên 41 độ C. Lợn thường nằm li bì, khó thở và thở dốc. Lợn thường ngồi thở ở tư thế như chó ngồi. Lợn kém ăn, ăn ít hoặc bỏ ăn hoàn toàn.
  • Vùng hầu, mặt của lợn có biểu hiện sưng phù, ở vùng tai và bụng xuất hiện nhiều mảng màu tím đỏ. Niêm mạc mắt tím tái, mũi chảy nước liên tục, ban đầu dịch mũi có màu nhờ đục, sau đó có lẫn máu.

  • Bệnh tiến triển từ 1 – 2 ngày hoặc kéo dài 5 – 10 ngày. Lợn bị bệnh tụ huyết trùng sẽ gầy yếu dần rồi chết. Nếu trải qua giai đoạn cấp tính mà lợn không chết thì sẽ chuyển sang thể mãn tính.

Thể mãn tính:

  • Lợn gầy yếu, khó thở, ho khan và ho liên miên. Lúc đầu, lợn bị bệnh sẽ bị táo bón sau đó chuyển sang ỉa chảy. Phân có mùi tanh hôi khó chịu.

  • Trên da lợn bệnh có những đám xuất huyết tím bầm, xuất hiện nhiều ở vùng bụng, tai, phía dưới đùi và bẹn. Lợn mắc bệnh tụ huyết trùng nếu không điều trị kịp thời, tùy vào mức độ nặng nhẹ của bệnh, vật nuôi sẽ chết sau 1- 2 tháng.

Bệnh tích

Thể cấp tính: Xoang ngực, xoang bao tim và xoang phúc mạc tích nhiều nước. Phổi viêm nặng, màu đỏ sẫm do tụ huyết và xuất huyết trên da. Phổi bị xơ hóa có nhiều điểm hoại tử, màng phổi viêm. Các hạch ở hầu họng và hạch màng treo ruột của heo sưng to và tụ huyết. Tụ huyết, xuất huyết ở nhiều cơ quan bên trong. Thận ứ máu đỏ sẫm, mổ ra có máu cục, lá lách sưng to, tụ huyết.

Thể mãn tính: Lợn thường rất gầy. Phổi viêm với nhiều tổ chức xơ hóa, có thể có ổ hoại tử bã đậu. Có hiện tượng viêm khớp có mủ, gây đau chân và đi lại khó khăn.

Bệnh tụ huyết trùng

Cách điều trị bệnh tụ huyết trùng ở lợn

Phác đồ:

  • Sử dụng thuốc hạ sốt, tăng cường đề kháng và kích thích miễn dịch ALNAGIN 50
  • Bổ sung GLUCO-K-C AMIN THẢO DƯỢC giúp tăng cường đề kháng và khả năng phục hồi sức khỏe sau nhiễm bệnh cho lợn
  • FLOXIN là kháng sinh chứa hoạt chất Florfenicol sẽ giúp tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh

Cách phòng bệnh tụ huyết trùng ở lợn

Chuồng nuôi phù hợp với từng loại lợn và độ tuổi khác nhau, có tường bao, rào chắn. Chuồng trại luôn thông thoáng, đủ ánh sáng, mát về mùa hè, ấm về mùa đông.

Thường xuyên quét dọn, định kỳ tẩy uế, khử trùng chuồng nuôi, cọ rửa và tiêu độc máng ăn, máng uống và các dụng cụ chăn nuôi, quần áo bảo hộ…

Sau mỗi đợt nuôi, phải vệ sinh chuồng trại và khử trùng tiêu độc, sau đó để trống chuồng. Lợn mới mua về phải nuôi cách ly ở khu vực riêng 15 – 20 ngày trước khi nhập đàn.

Phân, rác và chất thải trong chuồng cần được thu gom thường xuyên, đưa ra chỗ tập trung riêng để giữ chuồng luôn sạch sẽ. Hạn chế phương tiện, người và vật lạ vào khu vực chăn nuôi.

Để khử trùng tiêu độc cần sử dụng ánh nắng mặt trời để phơi máng ăn, máng uống, dụng cụ chăn nuôi. Quét nước vôi pha loãng nồng độ 10% (1 kg vôi/10 lít nước) trong chuồng nuôi, môi trường xung quanh. Dùng một số hóa chất sát trùng theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Đồng thời thức ăn, nước uống phải đảm bảo vệ sinh.

Bệnh tụ huyết trùng là bệnh truyền nhiễm có tính chất thổ nhưỡng, vi khuẩn cư trú ở khắp nơi gặp điều kiện thuận lợi là phát dịch.

Đặc biệt bà con cần phòng bệnh bằng vaccine vì đây là biện pháp chủ động, tích cực và có hiệu quả nhất, 1 năm tiêm 2 – 3 lần tùy theo mục đích chăn nuôi và dịch tễ từng vùng. Lần 1 tiêm khi lợn 45 – 50 ngày tuổi, sau đó tiêm nhắc lại cứ 6 tháng 1 lần. Những nơi thường xuyên có dịch xảy ra, cần tiêm vaccine nhắc lại 2 lần sau lần 1 khoảng 3 – 4 tuần, sau đó tiêm nhắc lại cứ 6 tháng 1 lần.

Bệnh tụ huyết trùng

Lịch sử bệnh tụ huyết trùng

Mầm bệnh tụ huyết trùng lần đầu tiên được Bollinger phát hiện trên bò vào năm 1878 ở Munic, Đức. Những năm tiếp theo, nhiều nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra mầm bệnh này ở các loài động vật khác nhau như ở thỏ vào năm 1881, lợn năm 1886, trâu vào năm 1887. Từ năm 1959 đến năm 1976, Pavri và Apte đã ghi nhận vi khuẩn tụ huyết trùng gây bệnh cho hươu, nai, chó,mèo, ngựa, chồn, khỉ…

Năm 1880, Louis Passteur lần đầu tiên phân lập vi khuẩn gây bệnh trên xác chết gà. Sau đó, nhiều nhà khoa học cũng phân lập được vi khuẩn gây bệnh tương tự trên các loài động vật khác nhau. Năm 1887, Trevisan đề nghị đặt tên vi khuẩn gây bệnh tụ huyết trùng là Pasteurella để ghi nhớ công ơn của Louis Passteur .

Từ năm 1887 đến nay, bệnh tụ huyết trùng được phát hiện ở nhiều nước trên thế giới, gây thiệt hại nghiêm trọng cho nhiều nước, đặc biệt là các nước nhiệt đới nóng ẩm thuộc châu Á như các nước Đông Dương, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia.*Ở Nhật Bản, bệnh được phát hiện vào năm 1923, song không gây thành dịch và không thể hiện dịch tễ. Bệnh cũng được phát hiện ở Vườn thú Quốc gia Mỹ vào năm 1912.

Đến năm 1984, Tổ chức Dịch tễ Thế giới chính thức công bố bệnh tụ huyết trùng trên trâu, bò và phân loại bệnh vào bảng B trong danh mục các bệnh truyền nhiễm gây nguy hiểm ở gia súc. Đến năm 1992, bệnh xảy ra ở châu Phi và gây thiệt hại nghiêm trọng cho đàn gia súc.

Ở Việt Nam, trong những năm 1970, có 80% ổ dịch và 84% gia súc thiệt hại do bệnh tụ huyết trùng thuộc các tỉnh phía Nam. Đến năm 1990, phân bố địa lý của bệnh nghiêng về các tỉnh phía Bắc, số địa phương có dịch tụ huyết trùng cũng tăng lên nhiều, hàng năm có tới 20 – 25 tỉnh thông báo có bệnh lưu hành.

Liên hệ ngay với đội ngũ chuyên gia của Win Pharma để có được những tư vấn chi tiết hơn về cách phòng và trị bệnh tụ huyết trùng trên lợn

Hotline: 1900.8935

Fanpage: Win Pharma

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *